Không cần hợp đồng công chứng cũng được sang tên sổ đỏ? 

CÁC HẬU QUẢ PHÁP LÝ NÊN BIẾT

Hậu quả pháp lý trong trường hợp không thực hiện quy định về công chứng, chứng thực

Bộ luật dân sự 2015 quy định:

– Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (Khoản 2 Điều 119)

– Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực (Điều 129).

Điều kiện bắt buộc để giao dịch mua bán quyền sử dụng đất là phải công chứng, chứng thực mới được công nhận giao dịch có hiệu lực. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp ngoại lệ, được xem xét cấp sổ đỏ, nếu các giao dịch được xác lập thuộc một trong các trường hợp dưới đây.


TRƯỜNG HỢP KHÔNG CẦN HỢP ĐỒNG CÓ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC ĐỂ LÀM SỔ ĐỎ

1. Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013

Theo quy định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên.

Theo đó, nếu thực hiện giao dịch mua bán trong trường hợp kinh doanh bất động sản thì việc có công chứng hay không thuộc yêu cầu của các bên thực hiện. Nên nếu hai bên yêu cầu không công chứng thì giao dịch vẫn hợp lệ và được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp sổ đỏ khi có yêu cầu theo quy định nêu trên.

2. Tại khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đất đai

(sửa đổi bởi khoản 54 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP) trường hợp chưa được cấp sổ đỏ thì được cấp sổ đỏ theo thủ tục lần đầu mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Cụ thể:

– Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước ngày 01/01/2008;

– Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ ngày 1/1/2008 đến trước ngày 1/7/2014 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013 và Điều 18 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP.

Theo đó, các cơ quan tiếp nhận hồ sơ đề nghị làm sổ đỏ không được yêu cầu người nhận chuyển nhượng phải nộp hợp đồng có công chứng hoặc chứng thực.

3. Tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Dựa theo quy định trên, nếu một trong các bên đã thực hiện ít nhất là ⅔ nghĩa vụ trong hợp đồng, và có giấy tờ chứng minh được việc thực hiện ⅔ nghĩa vụ hợp đồng như thông tin chuyển khoản, giấy biên nhận…  thì hợp đồng mua bán nhà đất này vẫn có hiệu lực.

Khi đó, một trong các bên hoặc tất cả các bên được yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng và các bên sẽ không cần thực hiện việc công chứng.

Tham khảo: Thư viện pháp luật